Lịch sử của sinh trắc dấu vân tay.

Trung Quốc Cổ đại: Các thương nhân sử dụng dấu ấn của ngón tay cái trong việc giao dịch

Năm 1684: Tiến sĩ Nehemiah Grew (1641-1712) giới thiệu Finger Prints, Palms and Soles đến Hội Hoàng gia

Năm 1685: Tiến sĩ Bidloo công bố tấm bản đồ giải phẫu, minh họa các chỉ số của con người có liên quan đến thái độ sống

Năm 1686: Tiến sĩ Marcello Malphigi (1628-1694) đưa ra luận thuyết về các loại vân tay: xoắn, móc, vòm trong dấu vân tay

giả thuyết rằng dấu vân tay là duy nhất

giả thuyết rằng dấu vân tay là duy nhất

Năm 1788: J.C.Mayer là người đầu tiên đưa ra thuyết cơ bản sinh trac dau van tay và giả thuyết rằng dấu vân tay là duy nhất

Năm 1823: Joannes Evangelista Purkinji tìm thấy các mô hình và hình dạng của ngón tay bắt đầu hình thành ở khoảng tuần thứ 13 của thai nhi trong bụng mẹ.

Năm 1823: Tiến sĩ Jan Purkinje phân loại những chủng trên các vân tay thành 9 loại: arch, tented arch, ulna loop, radial loop, peacock’s eye/compound, spiral whorl, elliptical whorl, circular whorl, and double loop/composite.

Năm 1832: Tiến sĩ Charles Bell (1774-1842) là một trong những bác sĩ đầu tiên kết hợp khoa học nghiên cứu giải phẫu thần kinh với thực hành lâm sàng. Ông xuất bản cuốn The Hand: Its Mechanism and Vital Endowments as Evincing Design.

Lịch sử của sinh trắc dấu vân tay.

Lịch sử của sinh trắc dấu vân tay.

Năm 1880, Henry Faulds và W.J Herschel, trong 1 công trình công bố tên là “Nature” đã đề xuất sử dụngvân tay như là phương thức độc đáo để xác định bản chất của con người.

Năm 1893 Francis Galtons (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò Francis Galtons (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau. Ông đã đơn giản hoá việc phân loại vân tay thành 3 loại lớn:

+ Vân sóng (không có tam giác điểm)

+ vân móc (có 1 tam giác điểm)

+ vân xoáy (có 2 tam giác điểm) (1892) Francis Galtons (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau. Chính điều này đã mờ ra ngành nhân học.

Năm 1897: Harris Hawthorne Wilder là người Mỹ đầu tiên học về Dermatoglyphics. Ông đã phát minh ra chỉ số Main Line, nghiên cứu thenar hypothenar eminencies, khu II, III, IV.

Năm 1902, Harris Hawthorne Wilder đã thiết lập hệ thống cơ bản của môn hình thái học, di truyền học, và nghiên cứu trên chủng loại lòng bàn tay và vân tay.

Harris Hawthorne Wilder

Harris Hawthorne Wilder

Tiến sĩ Harold Cummins

Năm 1926 Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lí luận chỉ số cường độ vân tay PI (Pattern Intensity).

+ Giá trị RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người.Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ.

+ Dấu vân tay được khởi tạo ở thai nhi vào giai đọan từ 13 đến 19 tuần tuổi. Vào giai đọan trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não. Ông cũng đề xuất “Dermatoglyphics” ( sinh trắc dấu vân tay) như là một thuật ngữ cho chuyên ngành nghiên cứu dấu vân tay tại Hiệp hội hình thái học của Mỹ. Từ đó, Dermatoglyphics chính thưc trở thành 1 ngành nghiên cưu riêng biệt.

 

Hiệp hội nghiên cứu hình thái sinh lý học bắt đầu công trình nghiên cứu 5 chủng loại vân tay

Năm 1930, Hiệp hội nghiên cứu hình thái sinh lý học (viết tắt là SSPP: Society for the Study of Physiological Patterns) bắt đầu công trình nghiên cứu chủng vân tay và những nét đặc trưng độc đáo của từng chủng vân tay

Năm 1944: Tiến sĩ Tâm lý phân tích Julius Spier Chirologist xuất bản cuốn sách “Bàn tay của trẻ em”. Ông đã khám phá một số điểm đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển tâm sinh lý, chẩn đoán sự mất cân bằng và các vấn đề trong khu vực này từ các mô hình của bàn tay

Năm 1950, giáo sư phẫu thuật não người Canada Dr. Penfield đã chỉ ra rằng có sự liên hệ mất thiết giữa vân tay với tính cách con người

Năm 1957: Tiến sĩ Walker sử dụng các cấu hình da trong chẩn đoán Hội chứng Down

Năm 1968: Sarah Holt nghiên cứu mô hình các vân tay của cả hai bàn tay và lòng bàn tay ở các dân tộc khác nhau cả về đặc tính bẩm sinh và sự tác động của môi trường

Năm 1969: John J. Mulvihill, MD và David W. Smith, MD xuất bản cuốn “Thiên tài qua Vân tay”, cung cấp phiên bản mới nhất về sự hình thành của vân tay

Năm 1970: Liên Xô sử dụng  sinh trac dau van tay   trong việc lựa chọn thí sinh cho Thế vận hội Olympic

Năm 1976: Schaumann nghiên cứu các chỉ số trên vân tay của những người bệnh tim bẩm sinh, ung thư, bệnh bạch cầu, bệnh tâm thần phân liệt…. nghiên cứu được hướng vào nghiên cứu di truyền và chẩn đoán của các khuyết tật nhiễm sắc thể.

Schaumann nghiên cứu các chỉ số trên vân tay của những người bệnh tim bẩm sinh

Schaumann nghiên cứu các chỉ số trên vân tay của những người bệnh tim bẩm sinh

Năm 1980: Trung Quốc thực hiện công trình nghiên cứu tiềm năng con người, trí thông minh và tài năng trong vân tay và gen của con người.

1985: Tiến sĩ Chen Yi Mou – Đại học Havard nghiên cứu Sinh trắc vân tay dựa trên Thuyết Đa Thông Minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần đầu tiên áp dụng trong lĩnh vực giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân tay

Năm 1994, giáo sư Lin Jui Pin đã mang nền khoa học phát triển dấu vân tay vào Đài Loan. Sau đó, nó đã được ứng dụng vào việc học tập và nghiên cứu và tạ

Năm 2000: Tiến sĩ Stowens – Giám đốc Bệnh viện St Luke ở New York tuyo ra tiếng vang rất lớn tại Đài Loan vào lúc bấy giờên bố để có thể chẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác hơn 90%. Tại Đức, Tiến sĩ Alexander Rodewald tuyên bố có thể xác định khuyết tật bẩm sinh tương đương với độ chính xác 90%.

Năm 2004: Trung tâm IBMBS (Trung tâm Sinh trắc học Xã hội và Hành vi ứng xử quốc tế) đã xuất bản hơn 7000 luận án về Sinh trắc vân tay. Ngày nay, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan áp dụng Sinh trắc vân tay đến các lĩnh vực giáo dục, hy vọng sẽ cải thiện chất lượng giảng dạy và nâng cao hiệu quả học tập bằng cách xác định các phong cách học tập khác nhau.

Năm 2004, Cty Well Gene Sciences đã bắt đầu sử dụng kỹ thuật cao để lấy  dấu vân tay. Với 1 cơ sở dữ liệu khổng lồ lên đến hàng triệu cùng với kỹ thuật phân tích thống kê, công ty này đã đưa ứng dụng sinh trắc vân tay lên 1 tầm cao mới. Cùng thời điểm này, tại châu Á, mức độ quan tâm đặc biệt về khả năng nghiên cứu và ứng dụng của ngành  sinh trắc dấu vân tay lan nhanh mạnh mẽ.

 

>